• dau-title
  • Bài viết nghiên cứu, trao đổi
  • cuoi-title

Đại tướng Võ Nguyên Giáp với công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ tại Cao Bằng giai đoạn 1941-1945

Thứ năm - 30/09/2021 16:34

    Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5/1941), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; trong đó Hội chỉ rõ “Việc đào tạo cán bộ hiện nay đã thành công tác gấp rút, không thể bỏ qua một giờ phút. Tất cả các cấp bộ chỉ huy của Đảng, phải đặc biệt chú ý công tác này”[1]. Vì vậy, tuy rất bận công việc chỉ đạo phong trào cách mạng chung của cả nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí cán bộ Trung ương Đảng vẫn luôn chú trọng và chuẩn bị kỹ lưỡng cho công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ. Là “người học trò xuất sắc và gần gũi” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã vận dụng, sáng tạo, thực hiện xuất sắc nhiều chỉ dẫn của Bác, để lại dấu ấn trong công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ tại Cao Bằng giai đoạn 1941-1945.
    Từ cuối tháng 12/1940, tại làng Nặm Quang (Tịnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc; cách biên giới Việt - Trung khoảng 20 km), dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Dương Hoài Nam (tức Võ Nguyên Giáp) đã cùng các đồng chí Lâm Bá Kiệt (tức Phạm Văn Đồng), Phùng Chí Kiên trực tiếp soạn tài liệu và giảng dạy lớp huấn luyện ngắn ngày cho hơn bốn mươi học viên là thanh niên cách mạng từ Cao Bằng lánh sang, nhằm đào tạo cán bộ cho công tác thí điểm phong trào Việt Minh ở Cao Bằng. Sau lớp huấn luyện này, các đồng chí dự lớp đã trở về ngay trong nước, nắm lại các cơ sở quần chúng, tìm cách phục hồi phong trào.
    Cuối năm 1941 đầu năm 1942, đồng chí Võ Nguyên Giáp được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ về châu Hoà An để mở lớp huấn luyện. Trước khi lên đường, đồng chí đã cải trang thành một người dân địa phương với bộ quần áo chàm, chiếc mũ nồi dạ và một chiếc túi dệt bằng vải chàm đeo sau lưng. Trong túi, ngoài những tài liệu của lớp huấn luyện tại biên giới, lúc này đã được in lại thành tập với tên “Con đường giải phóng”, còn có tập “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô” do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dịch và đánh máy để làm tài liệu huấn luyện các đảng viên. Thời gian này, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã mở lớp huấn luyện chính trị tại các hang: Ghị Rằng, Ngườm Hoài, Ngườm Poóng, Ngườm Mác Men... Nội dung huấn luyện gồm có tình hình thế giới, tình hình trong nước, tại sao phải đánh Tây, đuổi Nhật, rồi đến công tác chuẩn bị  khởi nghĩa vũ trang, cách tổ chức hội cứu quốc, các đội tự vệ, năm bước công tác bí mật; lại học cả cách  khai hội, cách phát biểu ý kiến…. Tuy các lớp huấn luyện được tổ chức trong hoàn cảnh hết sức khó khăn do điều kiện vật chất thiếu thốn, bữa ăn chỉ có cháo bẹ với rau rừng, nhưng tinh thần học tập của cán bộ, đảng viên rất hào hứng. Thời gian học tập tuy ngắn, nhưng khẩn trương, kỹ lưỡng, nên toàn thể học viên đều nắm vững chủ trương, đường lối cách mạng trong điều kiện lịch sử mới và cách thức gây dựng, phát triển phong trào Việt Minh.
    Tháng 3/1942, tại nhà Ông Mã Văn Hản (Lũng Hoài, Hồng Việt, Hoà An), đồng chí Võ Nguyên Giáp đã báo cáo với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tình hình công tác tại Hoà An và tiếp tục nhận Chỉ thị chuyển sang châu Nguyên Bình mở lớp huấn luyện Việt Minh. Tại đây, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã mở lớp huấn luyện đầu tiên tại Hang Kéo Quảng. Sau đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Lê Thiết Hùng đến hoạt động tại xã Tam Kim (Nguyên Bình), xúc tiến công tác gây dựng các đoàn thể cứu quốc sang châu Ngân Sơn (Bắc Kạn) nhằm đào tạo cán bộ cho phong trào vùng cao, các đồng chí đã mở hai lớp huấn luyện Việt Minh cho các hội viên cứu quốc ở các xã Kim Mã, Tam Lộng, Cẩm Lý tại Roỏng Bó và Khuổi Dủ.
    Đầu năm 1942, đồng chí Võ Nguyên Giáp chuyển sang tổ chức lớp huấn luyện ở Lũng Lừa (khu vực đồng bào Mông, Dao ở Nguyên Bình). Đối với lớp huấn luyện trên rẻo cao này, thì việc giảng bài khó khăn một cách đặc biệt. Để khắc phục những khó khăn về việc giải nghĩa những danh từ mới, nhất là những danh từ về chính trị cho các học viên người đồng bào dân tộc không biết tiếng Kinh, đồng chí còn “dùng thêm những hình vẽ để giảng bài”[2]. Khi nói đến Tây, Nhật áp bức bóc lột dân ta, thì đồng chí vẽ hình thằng Tây, thằng Nhật đánh đập đồng bào, vẽ người dân trên lưng chồng chất sưu cao, thuế nặng. Khi giảng về vấn đề đoàn kết đánh Tây, đuổi Nhật thì đồng chí vẽ người Mán, người Thổ, người Kinh cùng nắm tay nhau… Cách làm này giúp anh chị em học viên là người dân tộc hiểu được dễ dàng hơn. Cuối cùng, kết quả lớp học khá tốt. Trong lễ tốt nghiệp, một đồng chí học viên đã nói bằng một giọng cảm động: “Chúng tôi ở núi cao, rừng rậm bao đời nay không có ánh sáng. Hội đã đưa đồng chí giáo viên đến chỉ cho chúng tôi con đường độc lập, tự do. Anh chị em chúng tôi như những người thức đêm, nhà có ngọn đèn dầu đã cạn, sắp tắt, giờ cấp trên cử người đến  đem dầu đổ thêm vào, làm cho đèn lại sáng ra.  Đầu óc chúng tôi trước kia tối tăm, bây giờ nhờ hội đã sáng”[3].
    Qua những lớp huấn luyện tại Hòa An và Nguyên Bình, càng thấy rõ, trong khi vận động quần chúng làm cách mạng, nếu nói lên được những nguyện vọng nóng bỏng của quần chúng, những điều liên hệ mật thiết đến đời sống của quần chúng, thì quần chúng rất dễ tiếp thu, công tác vận động sẽ trở nên có một sức hấp dẫn đặc biệt, sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quần chúng tiến lên con đường đấu tranh. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã mở 3 lớp huấn luyện cán bộ ở Nguyên Bình; tại Hòa An mở 6 lớp đào tạo cán bộ Việt Minh cho phòng trào Hoà An và các địa phương khác trong tỉnh cũng được liên tiếp tổ chức. Sau đó cũng thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Phạm Văn Đồng đã chọn 10 thanh niên Cao Bằng đi học lớp “Đệ tứ chiến khu vô tuyến điện, điệp báo ban” tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Quốc), thời gian học một năm, mãn khóa về nước tham gia cao trào tổng khởi nghĩa.
    Với kết quả mở rộng cơ sở chính trị vững chắc ở Nguyên Bình, tháng 2/1943, tại Lũng Hoài (Hồng Việt, Hoà An) đã diễn ra Hội nghị Liên tịch giữa Tổng bộ Việt Minh, Liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng và đại biểu cứu quốc quân bàn việc mở rộng phong trào, chuẩn bị chủ động đón thời cơ mới. Theo Chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị bàn việc mở rộng phong trào "Nam tiến" để tạo con đường liên lạc từ Cao Bằng phát triển sang các hướng Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang. Ngoài hướng "Nam tiến" còn có hướng "Đông tiến" và "Tây tiến". Được giao phụ trách Ban xung phong Nam tiến, đồng chí Võ Nguyên Giáp tiếp tục thực hiện hoạt động đào tạo, huấn luyện cán bộ. Để việc giảng dạy tại các lớp huấn luyện đỡ khó khăn, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tranh thủ học tiếng Tày, tiếng Mán; vừa làm công tác huấn luyện vừa tìm hiểu tình hình địa phương. Các đồng chí đi huấn luyện trở về hoạt động rất hăng hái. Những nhận thức mới của anh em, đầu tiên, lan ra trong gia đình, rồi lan tỏa ra họ hàng, thân thuộc. Chẳng bao lâu, tư tưởng cách mạng đã tràn lan khắp nơi, thu hút được cảm tình của nhiều người. Bên cạnh thời gian huấn luyện, đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí ở địa phương đi các làng, bản làm công tác vận động quần chúng, tham gia những cuộc sinh hoạt của các giới nông dân, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng. Phong trào Nam tiến được cán bộ và nam nữ hội viên thanh niên cứu quốc nhiệt liệt hưởng ứng. Từ Nguyên Bình (Cao Bằng) các đội xung phong tiến xuống Ngân Sơn, Bạch Thông, qua Chợ Rã xuống Chợ Đồn (Bắc Kạn) nối liền với Chợ Chu, Đại Từ (Thái Nguyên) thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc: Dao, Mông, Tày, Nùng vào các hội cứu quốc của Mặt trận Việt Minh. Phong trào Nam tiến qua vùng đồng bào Dao đã dẫn đến sự ra đời của khu Quang Trung và Thiện Thuật, Khu vận động cách mạng của đồng bào Dao ở Nguyên Bình (Cao Bằng) và Bắc Kạn.
    Trong ký ức của đồng bào các dân tộc Cao Bằng, đồng chí Võ Nguyên Giáp không chỉ là người lãnh đạo cao nhất của quân đội, là vị đại tướng tài ba bách chiến, bách thắng mà còn là một người Anh cả, một thành viên ruột thịt của nhiều gia đình. Đồng chí nói thành thạo tiếng Tày, tiếng Dao và tiếng Mông. Bài diễn ca về Mười chính sách Việt Minh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết bằng thể thơ lục bát gửi đồng bào Việt Bắc đã được đồng chí Võ Nguyên Giáp chuyển sang thể thơ 5 chữ lấy tên là “Việt Minh ngũ tự kinh” và dịch sang 3 thứ tiếng: Tày, Dao, Mông để phổ biến cho đồng bào, sau được dùng làm tài liệu tuyên truyền chính trong quần chúng và các lớp huấn luyện chính trị, văn hóa của phong trào Việt Minh. Sau này mỗi lần về thăm Cao Bằng, gặp bà con các dân tộc, đồng chí đều nói chuyện bằng tiếng dân tộc.
    Đứng trước những yêu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam, tháng 12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, vào hồi 17 giờ ngày 22/12/1944, tại núi Dền Sinh, thuộc dãy Khau Giáng (Khu rừng Trần Hưng Đạo), đồng chí Võ Nguyên Giáp đã chủ trì buổi lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Trong khu rừng đại ngàn với những hàng cây thẳng tắp, đứng trước hàng quân đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt đoàn thể đọc diễn từ tuyên bố thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và nêu rõ nhiệm vụ của Đội đối với Tổ quốc. Sau đó, toàn Đội làm lễ tuyên thệ 10 lời thề danh dự cùng những tiếng hô vang “xin thề” đồng thanh cất lên vang động cả đại ngàn. 10 lời thề thể hiện lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc với Đảng, tinh thần hy sinh chiến đấu, ý chí kiên quyết tiêu diệt quân thù cướp nước, hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân, thể hiện tinh thần đoàn kết và ý thức kỷ luật cao của đội quân cách mạnh. 10 lời thề danh dự do đồng chí Võ Nguyên Giáp biên soạn đã trở thành kim chỉ nam cho mọi chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam; là tác phẩm quân sự đầu tiên, là quân lệnh đầu tiên của vị tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngay sau ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã ra quân và giành thắng lợi trong trận đánh Đồn Phai Khắt  25/12/1944) và Đồn Nà Ngần (26/12/1944), mở đầu cho truyền thống “trăm trận trăm thắng” của quân đội ta.  
    Từ lớp huấn luyện Nặm Quang (Tịnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc), đến các lớp huấn luyện được mở ra trong thời kỳ lịch sử đặc biệt 1941 - 1945 như ở châu Hòa An, châu Nguyên Bình… đã giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng trưởng thành rất nhiều về sự hiểu biết, về trình độ, về khả năng công tác và về đạo đức cách mạng. Các cán bộ, đảng viên được tôi luyện về cả lý luận và thực tiễn là cơ sở quan trọng để thu hút quần chúng, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên những bước vững chắc, thành công của công cuộc xây dựng căn cứ địa cách mạng Cao Bằng, thắng lợi vẻ vang của cách mạng Tháng Tám ở địa phương đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và những công lao của đồng chí Võ Nguyên Giáp trong việc chỉ đạo mọi mặt công cuộc xây dựng căn cứ địa cách mạng Cao Bằng nói chung và trong việc chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ Cao Bằng nói riêng./.

ThS. Trịnh Thị Ánh Hoa
 Hiệu trưởng
 
 


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.133
[2] Nhiều tác giả: Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những chiến công chấn động  địa cầu,Nxb. Thời đại,  tr.111, H.2014
[3] Nhiều tác giả: Đại tướng Võ Nguyên Giáp và những chiến công chấn động  địa cầu,Nxb. Thời đại,  tr.111, H.2014

Những tin cũ hơn

Những tin mới hơn

 
circle-japan

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TRƯỜNG CHÍNH TRỊ HOÀNG ĐÌNH GIONG TỈNH CAO BẰNG
Địa chỉ: Phường Hòa Chung, Thành Phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng
Điện thoại: 026.3852.864 - 026.3759.488 -  Email: truongcthoangdinhgiong@gmail.com
Chịu trách nhiệm chính: (Bà) Trịnh Thị Ánh Hoa , Hiệu trưởng.
Ghi rõ nguồn (www.truongchinhtri.caobang.gov.vn) khi phát hành lại thông tin từ địa chỉ này.